- Về kiến trúc ngôi đền:
+ Cổng đền : Hai cột trụ cổng chính có hình trụ vuông, cao 3,37m, trên có biểu tượng hai con nghê hướng chầu vào nhau. Hai bên là tường giắc tiếp giáp với trụ giới hạn của cổng đền. Tại cổng đền có hai câu đối: "Phúc Hải điện linh tam lang điện" - "Hồng Sơn nhân kiệt sống trọng đền".
+ Nhà thượng điện: Nhà thượng điện quy mô nhỏ, kiến trúc đơn giản, được xây dựng lại bằng gạch được bao quanh 3 mặt kiên cố, mái lợp ngói, thoải, trên bờ nóc có đắp phượng long chầu nguyệt, các đầu kẻ, xà và khấu đầu có chạm trổ các họa tiết hoa lá cách điệu. Trong nhà thượng điện được bài trí theo 3 cung thờ ( Cung chính và cung tả, cung hữu ), thờ 3 vị tam lang, gian giữa đặt bài vị và các đồ tế khí, hai bên là bàn thờ các anh hùng liệt sỹ, những người có công với cách mạng. Phía trước bàn thờ là hai con rồng đang uốn lượn ôm lấy hai cột trụ. Nhà thượng điện có câu đối: "Đền Phúc Hải nhờ thế hiển linh vua ban ấn phong sắc" - "Đức Long vương thuận ý hộ chiếu dân hưởng lộc phụng thờ".
+ Nhà trung điện: Về kết cấu, nhà Trung điện cũng tương tự như nhà Thượng điện, dùng để thờ các vị thần, gồm 3 gian được kết cấu theo kiến trúc bê tông giả gỗ gác tường, mặt chính trổ 3 cửa, mái lợp ngói đỏ, đỉnh nóc có hình " Lưỡng long chầu nguyệt ", bốn góc mái đắp bốn con rồng cách điệu. Mặt trước nhà trung điện đặt nhà bia kiểu hai tầng, 8 mái, hai bên là hai bức tượng quan văn, quan võ chầu hai bên để bảo vệ Đền, phía trong đặt bia ghi nội dung các vị nhân thần được thờ tại đền Phúc Hải với hai câu đối: "Công cao hộ quốc lưu nhân thần" - "Đức đại yên dân hậu thế lập".
- Phần bài trí nội thất Trung điện khá đơn giản. Gồm hương án thờ bằng gỗ, bài trí hương bằng đồng, trước hương án có hai con hạc gỗ.
Như vậy, có thể nói Đền Phúc Hải là một công trình có sự thống nhất và hoàn thiện cao về mặt địa lý, về bố cục, về kết cấu và về kỷ thuật xây dựng…tuy không còn giữ được những nét chạm khắc tinh tế như xưa để lại, nhưng những giá trị tâm linh, truyền thống văn hóa mà nó mang lại thì vẫn còn nguyên vẹn như thuở ban đầu, là một chứng tích lịch sử, văn hóa vô giá.
Di tích đền Phúc Hải là một di tích lịch sử văn hóa có giá trị, là nơi thờ tự thành hoàng làng và 3 vị tam lang (theo truyền thuyết, tam lang là 3 con rồng, con của Hùng Hải, em Hùng Vương thứ 3, do mẹ con Trang Hoa sinh ra trên một chiếc thuyền giữa ngã ba Bạch Hạc, sau này làm thủy thần và được gọi là Nhất Lang, Nhị Lang, Tam Lang Long Vương, và Tam lang là chàng ba của vua Hùng được sai làm thần ở sông Bạch Hạc luôn hiển linh, phò trợ giúp muôn dân nên luôn được tôn thờ và 3 vị thần đó được thờ tại đền Phúc Hải). Bên cạnh đó, di tích Đền Phúc Hải gắn liền với nhân thần, là những vị có công khai khẩn đất đai, lập làng và có công trong công cuộc giữ nước chống ngoại xâm, bảo vệ quê hương, đất nước được nhân dân thờ phụng, tôn làm nhân thần. Cùng với lịch sử, đền cũng là nơi thờ phụng một số nhân vật thuộc các dòng họ: Trần, Lê, Đinh, Nguyễn… là những dòng họ về khai khẩn, lập làng khá sớm và một số người đỗ nho sinh, ấm sinh, tú tài qua các kỳ thi dưới thời phong kiến và đã có nhiều công lao với làng, xã nên được triều đình phong kiến sắc chỉ để thờ tự. Hiện nay, tại đền vẫn còn lưu giữ được một số tài liệu bằng bản gỗ chữ Hán và bản lược dịch ghi lại danh tính, công trạng của một số nhân vật từ thời Hậu Lê và thời nhà Nguyễn.
- Về hoạt động lễ hội: Hàng năm, cứ đến ngày 10/3 ( ngày giỗ thần) và 10/6 ( Lễ báo ân) âm lịch đông đảo bà con nhân dân trong Thôn và nhân dân quanh vùng đến tham quan, thắp hương tế lễ tại Đền.Từ trước Cách mạng Tháng Tám 1945, các hoạt động văn hóa tín ngưỡng tại Đền tuân thủ theo các quy ước của làng, xã thời phong kiến. Việc tổ chức tế tự được thực hiện vào ngày lễ, tết, khai hạ, rằm tháng giêng, tháng bảy, các dịp lễ kỳ phúc, lục, ngoạt,… do các vị chức sắc đứng đầu làng, xã làm chủ lễ. Vật phẩm được dâng lên bao gồm các sản phẩm nông nghiệp, lễ vật truyền thống và thu hút đông đảo người dân trong vùng tập trung về đây để thực hiện nghi thức tế lễ. Sau khi tế, các sinh hoạt văn hóa dân gian được tổ chức tại sân đền, như: Đánh cờ tướng, cờ người, kéo co, hát Sắc bùa… Tất cả đều cầu mong, ước nguyện cho mùa màng ngày càng tốt tươi, mưa thuận gió hòa, cuộc sống dân làng đầm ấm, yên vui. Sau Cách mạng, sinh hoạt tín ngưỡng tại đây vẫn được bảo lưu cho đến năm 1954. Từ năm 1954 đến 1990, do nhiều điều kiện chi phối nên các hoạt động sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng tại Đền bị tạm ngưng. Đến năm 2000, các hoạt động văn hóa tín ngưỡng tại Đền được phục hồi và chính thức tổ chức lại với quy mô như xưa sau khi ngôi đền được phục dựng lại vào năm 2013.
Tiếp nối từ những truyền thống có từ thời xa xưa. Sáng ngày 18/4 (nhằm ngày 10/3 năm Giáp Thìn); BQL di tích Đền Phúc Hải tổ chức Lễ Giỗ Thần và một số hoạt động thể dục thể thao tại khu di tích Đền Phúc Hải.
Trong thời gian tới BQL di tích tiếp tục gìn giữ, phát huy những giá trị vốn có, từng bước xây dựng Đền trở thành một địa chỉ tâm linh thu hút du khách xa gần, là điểm nhấn quan trọng trong quần thể du lịch văn hoá tâm linh mà thị xã Hồng Lĩnh đang hướng tới trong tương lai./.